Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của
Việt Nam, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành
của đất trời, vạn vật cỏ cây.
Dường như, trong mỗi chúng ta, ai ai cũng đều biết rằng Tết Nguyên
đán chính là một trong những kỳ nghỉ lễ lớn và quan trọng nhất của đất nước
Việt Nam từ xưa đến giờ và nó luôn mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc sâu
sắc, độc đáo. Vậy Tết Nguyên đán thực chất có nguồn gốc từ đâu và ý nghĩa tên
gọi của nó là như thế nào?
Tết đến xuân về không chỉ là niềm khao khát của biết bao đứa trẻ
để được xúng xính quần áo mới, được ăn bánh mứt và nhất là được nhận lì xì mà
nó còn mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Đó là điểm giao thời giữa năm cũ và
năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Bên cạnh đó là
khao khát sự trường tồn cuộc sống, sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân, sự gắn kết
trong cộng đồng, gia tộc và gia đình. Tết Nguyên đán còn là dịp để hướng về cội
nguồn. Đó là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt,
trở thành truyền thống tốt đẹp.
Tết Nguyên Đán -
hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ
đơn giản: Tết. "Tết" chính là "tiết". Hai chữ "Nguyên Đán" có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai
và "đán" là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết
Nguyên Đán". Tết
Nguyên Đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương "Tết
Ta", là để phân biệt với
"Tết Tây" (Tết Dương lịch).
Tết Nguyên Đán - hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền...
Nhưng
cũng có những thuyết cho rằng: văn hóa Việt – thuộc văn minh nông nghiệp lúa
nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian trong 1 năm thành
24 tiết khác nhau và ứng với mỗi tiết này đều có một thời khắc “giao thời”
trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo
trồng, chính là Tiết Nguyên đán.
Rồi về sau, do sự phát triển vượt bậc của ngôn ngữ nên chữ “tiết”
được Việt hóa thành “Tết” và hình thành nên tên gọi Tết Nguyên đán như ngày
nay.
Tết
Nguyên Đán được tính từ ngày nào?
Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho
nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người
Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.
Vì Âm
lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết
Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của
dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày
19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương
lịch. Toàn bộ dịp Tết
Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7
ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Nguồn
gốc của Tết Nguyên Đán
Chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ từ văn hoa Trung Quốc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, Tết Nguyên
Đán cũng là một trong những nét văn hóa được du nhập trong thời điểm đó. Theo
lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay
đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng
giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng
chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười
một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo
thiên lập địa" như
sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra
ngày Tết khác nhau.
Đến thời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định
là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi,
tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào
tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về
tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư
sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài
người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ
ngày Mồng một cho đến hết ngày mồng Bảy.
Ý nghĩa
của Tết Nguyên Đán
Tết
Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với
thần linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó
chính là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều
mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái
trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân
nhà,... được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu
dấu. "Về quê ăn Tết", đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là
một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.
Tết Nguyên đán với ý nghĩa sâu xa và mang tính thiêng, trang trọng
là tiễn đưa năm cũ, chào đón, chúc tụng năm mới sức khỏe con người tốt hơn,
sinh kế khá hơn, hạnh phúc cá nhân – gia đình bền vững hơn và khởi đầu từ ý
thức hệ nông nghiệp, sau dần tỏa rộng trong đời sống con người toàn xã hội,
song vẫn mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp.
Người ta tin rằng, vào dịp Tết Nguyên đán, tổ tiên cũng sẽ hiện
diện trên bàn thờ gia tiên, ở nhà thờ họ để chứng kiến lòng thành của con cháu,
và từ đó sẽ phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh, làm ăn ổn định và sống hạnh
phúc trong tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, vợ chồng. Đó là ý
nghĩa tâm linh của Tết Nguyên đán./.